Trong đầu tư, đôi lúc sẽ gặp phải trường hợp thị trường tài sản cơ sở như cổ phiếu sẽ biến động không như kế hoạch, gây ra tình trạng lỗ cho nhà đầu tư trong suốt thời kỳ giá xuống khiến cho nhà đầu tư lao đao muốn tìm cách khắc phục trạng thái lỗ này Cho nên những nhà tài chính đã nhìn ra được điểm này và sinh ra một sản phẩm mới là CDS, ban đầu sản phẩm CDS có tác dụng giúp nhà đầu tư chống lại rủi ro khi thị trường giá xuống, nhưng về sau này CDS lại được coi là một sản phẩm để đầu tư.
Vậy CDS là gì? Bài viết dưới đây sẽ làm sáng tỏ vấn đề này.
1. CDS là gì?
CDS là cách viết ngắn gọn của cụm từ Credit Default Swap, hay dịch ra là hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng, hoặc còn được gọi là chứng khoán phái sinh hay hợp đồng hoán đổi rủi ro về vỡ nợ tín dụng.
Hợp đồng cds là một dụng cụ phái sinh tín dụng được nhiều người sử dụng nhất và có thể liên quan đến trái phiếu, trái phiếu thị trường, chứng khoán đảm bảo thông qua thế chấp hay trái phiếu doanh nghiệp.
Công cụ phái sinh tín dụng sẽ gồm những hợp đồng song phương riêng tư và có thể chuyển nhượng được giữa hai bên tham gia trong mối quan hệ người cho vay và người đi vay. Nó giúp bên cho vay có thể chuyển nhượng được rủi ro vỡ nợ của bên đi vay cho một bên thứ ba.
Hiện tại đang có nhiều dạng công cụ phái sinh tín dụng khác nhau, có thể kể đến:
– Hợp đồng hoán đổi nợ xấu – CDS
– Nghĩa vụ nợ có thế chấp – CDO
– Hợp đồng hoán đổi tổng lợi tức
– Quyền chọn hoán đổi nợ xấu
– Hợp đồng kì hạn chênh lệch lợi tức
Trong tất cả trường hợp, giá cả của chúng đều tùy thuộc vào khả năng chi trả của những bên tham gia vào, như là nhà đầu tư cá nhân hoặc chính phủ.
2. Ưu nhược điểm của CDS.
Cũng như bất kỳ công cụ tài chính nào, hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng cũng có nhiều ưu điểm và tồn tại một số hạn chế riêng. Vậy nên việc đánh giá đúng ưu – nhược điểm của CDS là điều cần thiết để giúp nhà đầu tư có một cái nhìn tổng quan về công cụ này cũng như nắm bắt rõ hơn về tác động của CDS trong hoạt động quản trị rủi ro tài chính của các tổ chức.
2.1 Ưu điểm của CDS
Bản chất hoạt động của CDS đặt mục tiêu bảo vệ các chủ thể mua bằng việc đảm bảo mức độ tổn thất tối thiểu trong trường hợp xảy ra sự sụp đổ. Tuy nhiên, CDS cũng có thể được sử dụng với mục đích đầu cơ chênh lệch giá trong thị trường hiện tại. Vậy nên hợp đồng này có những ưu điểm nổi bật như sau:
– Cung cấp bảo đảm cho các bên tham gia, giảm thiểu thiệt hại trong trường hợp xảy ra rủi ro: Nhà đầu tư có thể sử dụng CDS như một hình thức bảo hiểm được thiết kế để bảo vệ mình và chuyển giao rủi ro với người phát hành hợp đồng. Để đảm bảo phòng vệ, cá nhân, tổ chức và công ty thường sở hữu các loại trái phiếu hoặc khoản nợ mua để giảm thiểu tác động tiêu cực của rủi ro trong tương lai.
– Không cần sở hữu tài sản cơ bản với thu nhập cố định: Bạn có thể tham gia vào thỏa thuận CDS mà không cần phải đầu tư trực tiếp vào tài sản vật chất liên quan.
– Mang lại cơ hội đầu tư: Người mua CDS có thể sử dụng hợp đồng hoán đổi nợ xấu và tận dụng biến động thị trường để tìm kiếm cơ hội đầu tư nhờ sự nhạy bén, thông minh của mình. Bằng việc thanh toán các khoản phí nhỏ định kỳ với CDS, trong trường hợp một cá nhân hoặc tổ chức rơi vào tình trạng vỡ nợ, nhà đầu tư có thể thu hồi và kiếm lợi nhuận cao bằng cách tiến hành giao dịch mua CDS trong hình thức đầu tư này.
– Phân tán rủi ro cho người bán: CDS cho phép nhà đầu tư phân tán rủi ro mà không cần thanh toán cho người phát hành hợp đồng. Họ cũng có thể bán nhiều hợp đồng hoán đổi để tăng cường việc phân tán rủi ro.
2.2 Nhược điểm của CDS
Mặc dù CDS mang lại những lợi ích về sự đảm bảo cùng với khả năng sinh lời trong việc đầu tư tài chính cho các chủ thể tham gia nhưng hợp đồng này vẫn có một số điểm hạn chế như:
– Tạo cảm giác an toàn không đúng đắn cho người cho vay và nhà đầu tư: Bảo hiểm qua CDS có thể tạo cho nhà đầu tư cảm giác an toàn mà không đúng với thực tế, họ sẽ cho rằng bản thân không gặp bất kỳ rủi ro nào liên quan đến khoản đầu tư của mình.
– Việc kiểm soát thị trường CDS gặp rất nhiều vấn đề: Giao dịch mua bán CDS diễn ra phổ biến và quy mô lớn làm cho việc xác định người sở hữu cuối cùng cũng như giá trị sở hữu của CDS trở nên khó khăn.
– Khó định giá chính xác các hợp đồng CDS trên thị trường: Các chủ thể tham gia mua CDS cũng đối mặt với sự khó khăn trong việc đảm bảo khả năng thanh toán chi phí định kỳ và tuân thủ đúng các quy định luật pháp liên quan đến hợp đồng bảo hiểm vỡ nợ.
– Rủi ro khi cho phép mua CDS mà không yêu cầu sở hữu tài sản bảo đảm: Điều này dễ dàng phát sinh những vấn đề liên quan đến việc các chủ thể tham gia vào thị trường CDS vay vốn với giá trị vô hạn.
– Giao dịch không được kê đơn: Mặc dù CDS giảm thiểu rủi ro, tuy nhiên chúng có thể tăng thêm mức độ rủi ro do việc giao dịch trên thị trường ngoại vi (OTC) không được kiểm soát và kiểm định chặt chẽ.
– Gây ảnh hưởng đến quá trình vay nợ và khả năng tự do tài chính: Điều này làm cho việc can thiệp và giám sát các hoạt động vay nợ trở nên khó khăn cho chính phủ. Các khoản vay có sự tham gia của CDS cũng giới hạn giá trị đáng tin cậy đối với những người mượn nợ.
– Người bán phải chịu rủi ro đáng kể: Người bán CDS phải chịu những rủi ro tiềm tàng từ việc người đi vay không thể hoàn trả nợ.
3. Cách thức hoạt động của CDS.
Bản chất của CDS khá giống một hợp đồng bảo hiểm, song cách thức thực hiện lại mang tính chất của loại chứng khoán phái sinh. Cụ thể, hai bên tham gia sẽ hoán đổi cho nhau dòng tiền. Bên mua CDS sẽ phải trả một khoản phí đều đặn gọi là CDS spread theo các thời điểm quy định cho người bán cho đến khi hết hợp đồng.
Phí CDS thường có quan hệ chặt chẽ với việc xếp hạng tín nhiệm của bên đi vay; và được tính theo điểm cơ bản (tỷ lệ %) hàng năm trên mỗi đơn vị mệnh giá của hợp đồng. Khả năng phá sản của doanh nghiệp càng cao sẽ làm cho phí CDS càng tăng vọt. Loại phí này sẽ được chia theo các chuẩn 1 năm, 2 năm, 5 năm và 10 năm. Giống như các mức lãi suất kỳ hạn tại ngân hàng, với mỗi mức thời hạn sẽ có các mức phí CDS khác nhau. Trong đó, phổ biến nhất là phí CDS cho 5 năm.
Còn người bán sẽ trả cho người mua dòng tiền bảo hiểm rủi ro. Dòng tiền này sẽ bằng 0 nếu vỡ nợ không xảy ra; và bằng giá trị khoản cho vay hoặc mệnh giá của trái phiếu được bảo hiểm nếu bên đi vay/nhà phát hành trái phiếu bị vỡ nợ.
4. Ví dụ thực tiễn về hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng CDS
- Ví dụ, nếu người cho vay lo ngại rằng người đi vay sẽ không thể hoàn trả khoản vay, người cho vay có thể sử dụng CDS để bù đắp hoặc trao đổi rủi ro.
- Để đổi lấy rủi ro vỡ nợ, người cho vay mua CDS từ một nhà đầu tư khác, người đồng ý trả tiền cho người cho vay nếu người đi vay không trả được nợ. Hầu hết các CDS cần tiếp tục đóng phí để duy trì hợp đồng bảo hiểm, giống như một hợp đồng bảo hiểm.
- Giao dịch hoán đổi mặc định tín dụng được thiết kế để trao đổi rủi ro tín dụng của các sản phẩm thu nhập cố định giữa hai hoặc nhiều bên.
- Khi tham gia CDS, người mua CDS phải trả một khoản phí (gọi là CDS spread) cho người bán để đảm bảo chống lại rủi ro vỡ nợ tín dụng xảy ra khi bên thứ ba phá sản. Phí CDS thường liên quan chặt chẽ đến xếp hạng tín dụng của người vay; nó được tính dựa trên điểm cơ bản (phần trăm) của mệnh giá hợp đồng trên một đơn vị mỗi năm.
- Mặc dù về cơ bản CDS giống như một hợp đồng bảo hiểm, tuy nhiên việc thực hiện CDS tương tự như các sản phẩm của loại chứng khoán phái sinh Swap ( còn được gọi là hợp đồng hoán đổi) thông thường.
5. Hình dung về CDS
Ví dụ, một nhà đầu tư mua một hợp đồng CDS tại Ngân hàng Môni, và thực thể đối chứng là Công ty Sung. Nhà đầu tư sẽ trả các khoản phí đều đặn cho Ngân hàng Môni và nếu Công ty Sung bị mất khả năng trả nợ (bội hứa trả lãi hay không trả tiền gốc), nhà đầu tư sẽ được Ngân hàng Môni trả một lần tiền bảo kê theo hợp đồng và hợp đồng CDS chấm dứt.
Nếu nhà đầu tư thực sự có sở hữu khoản nợ của Công ty Sung thì CDS được xem là hợp đồng phòng vệ (hedging). Nhưng nhà đầu tư cũng có thể mua hợp đồng CDS dựa trên cơ sở nợ của Công ty Sung, chứ không thật sự sở hữu nợ của công ty này.
Trường hợp sau là hoạt động đầu cơ, là sự đánh cuộc trên khả năng thanh toán của Công ty Sung, để kiếm tiền nếu Sung suy sụp.
Trường hợp sau cũng có thể là để phòng vệ cho một khoản đầu tư tại một công ty khác có vận mệnh tương tự như của Công ty Sung.
Nếu thực thể đối chứng (ở đây là Công ty Sung) bội ước thì một trong hai việc có thể xảy ra: Hoặc nhà đầu tư giao tài sản bị bội ước cho Ngân hàng Môni để được trả lại khoản tiền gốc (principal hay par value). Trường hợp này gọi là physical settlement (thanh lý dựa trên tài sản). Hoặc Ngân hàng Môni sẽ trả cho nhà đầu tư chênh lệch giữa mệnh giá và giá thị trường của khoản nợ, vì ngay cả khi Công ty Sung phá sản thì thường vẫn có khoản thu hồi được, chứ không phải mất hết. Trường hợp này được gọi là cash settlement (thanh lý bù tiền).
Giá, hay phí, của một hợp đồng CDS là khoản tiền hàng năm bên mua CDS phải trả cho bên bán suốt trong thời hiệu hợp đồng. Giá này gọi là “spread”, được tính theo phần trăm trên số tiền gốc. Chẳng hạn, nếu tiền phí hợp đồng CDS dựa trên giá trị đối chứng (nợ) của Công ty Sung là 50 bp (điểm cơ bản), hay 0,5% trên tiền gốc (1bp = 0,01%), thì một nhà đầu tư mua CDS có trị giá bảo đảm 10 triệu USD sẽ trả cho Ngân hàng Môni mỗi năm 50.000 USD. Các khoản trả này được thực hiện cho đến khi hợp đồng đáo hạn hoặc đến lúc sự cố rủi ro xảy ra (Công ty Sung phá sản).
Với các điều kiện như nhau thì theo đánh giá của thị trường, một công ty (thực thể đối chứng) có tiền phí CDS càng cao được xem là khả năng phá sản càng cao. Việc lấy phí cao hơn là để bù đắp cho nguy cơ rủi ro dễ bị xảy ra vậy.
Công cụ đầu cơ…
CDS cho phép nhà đầu tư đầu cơ dựa trên sự thay đổi phẩm cấp tín dụng của một thực thể. Là vì, nhìn chung, tiền phí CDS sẽ tăng khi uy tín trả nợ giảm và giảm khi uy tín trả nợ tăng. Do vậy, một nhà đầu tư có thể mua sự bảo kê (mua CDS) dựa trên công ty có khả năng bội tín cao, ngược lại có thể bán sự bảo kê (bán CDS) nếu họ nghĩ rằng thực thể đối chứng vững mạnh, công ty khó có khả năng bị thiệt hại.
Ví dụ, một qũy đầu cơ tin rằng Công ty Sung chẳng bao lâu nữa sẽ bị mất khả năng trả nợ. Do vậy, qũy này mua 10 triệu USD trị giá gốc bằng hợp đồng bảo kê CDS, thực thể đối chứng là Công ty Sung, có hiệu lực trong 2 năm, tại Ngân hàng Môni. Giá hợp đồng là 500 bp (5%) mỗi năm.
Nếu Công ty Sung quả thật bị đổ bể sau 1 năm thì quỹ đầu cơ phải trả cho Ngân hàng Môni 500.000 USD, nhưng sau đó quỹ này sẽ nhận được 10 triệu USD (giả định tỷ lệ thu hồi bằng không). Quỹ đầu cơ do vậy sẽ có lợi to, nhưng Ngân hàng Môni và các nhà đầu tư của họ thì phải chịu lỗ 9,5 triệu USD, trừ phi ngân hàng này đã có cách bù trừ vị thế trước khi xảy ra vụ đổ bể.
Tuy nhiên, nếu Công ty Sung chẳng có hề hấn gì trong suốt thời gian hợp đồng CDS hiệu lực là 2 năm thì quỹ đầu cơ sẽ phải trả 1 triệu USD và chấm dứt hợp đồng với kết quả lỗ (do đánh giá sai).
Cần biết rằng, có thể có khả năng thứ ba với kịch bản trên. Đó là quỹ đầu cơ có thể quyết định thanh lý vị thế của mình sau một thời gian nào đó theo chủ trương chốt lãi hay cắt lỗ. Chẳng hạn, sau 1 năm, tín hiệu từ thị trường cho thấy khả năng Công ty Sung vỡ nợ là rất cao, do vậy giá CDS (spread/premium) bảo hiểm cho Sung tăng từ 500 lên 1500 bp.
Quỹ đầu cơ có thể quyết định bán “giá trị 10 triệu USD bảo kê” 1 năm còn lại cho Ngân hàng Môni với mức giá cao hơn này. Như vậy, tính trong hai năm (theo hợp đồng) quỹ đầu cơ sẽ trả cho ngân hàng 2*5%*10 triệu USD = 1 triệu USD, nhưng sẽ nhận được 1 năm*15%*10 triệu USD = 1,5 triệu USD và có lời 500.000 USD.
Một tình huống khác, sau 1 năm thị trường nay nhận thấy Sung khó có chuyện vỡ nợ, do vậy tiền phí CDS giảm từ 500 bp xuống còn 250 bp. Trường hợp này quỹ đầu cơ cũng có thể sẽ quyết định bán “giá trị 10 triệu USD bảo kê” 1 năm cho Ngân hàng Môni (bán lại hợp đồng CDS) với giá thấp hơn này.
Như vậy, tính trong hai năm (theo hợp đồng) quỹ đầu cơ phải trả cho ngân hàng 2*5%*10 triệu USD = 1 triệu USD và sẽ nhận về 1*2,5%*10 triệu USD = 250.000 USD để chịu lỗ 750.000 USD (với điều kiện là Công ty Sung không có vấn đề gì suốt trong năm thứ hai). Tuy quỹ đầu tư bị lỗ, nhưng khoản lỗ này nhỏ hơn khoản lỗ 1 triệu USD sẽ xảy ra nếu họ không tham gia giao dịch thứ hai.
Các giao dịch trên không nhất thiết chỉ diễn ra với các khoảng thời gian dài. Giả định, nếu tiền phí CDS Công ty Sung chỉ tăng một ít điểm cơ bản (bp) mỗi ngày trong một thời gian thì quỹ đầu cơ cũng có thể sẽ tham gia vào một giao dịch bù trừ sớm để kiếm một khoản lợi nhỏ (mà chắc) trong thời gian hiệu lực của hai hợp đồng CDS.
Chuyên gia Huy Nam
… và phòng vệ rủi ro tín dụng hiệu quả
Theo bản chất nguyên thủy, CDS thường được sử dụng để quản lý rủi ro tín dụng, là loại rủi ro vỡ nợ có thể xảy ra từ hoạt động cho vay. Cụ thể, người sở hữu trái phiếu doanh nghiệp có thể phòng vệ rủi ro tài sản nắm giữ của họ bằng cách tham gia một hợp đồng CDS với tư cách người mua sự bảo đảm. Nếu trái phiếu bị thiệt hại, thu nhập từ hợp đồng CDS sẽ xóa sự mất mát bên trái phiếu đối chứng.
Chẳng hạn, một quỹ hưu trí sở hữu 10 triệu USD trái phiếu 5-năm do Công ty Ruro phát hành. Để quản lý rủi ro mất tiền nếu chẳng may Công ty Ruro bị mất khả năng trả nợ, quỹ hưu trí này sẽ mua một hợp đồng CDS của Ngân hàng Bada với giá trị danh nghĩa 10 triệu USD. Hợp đồng CDS giao dịch ở mức 200 bp (2%). Như vậy, để đổi lấy sự bảo vệ, quỹ hưu trí sẽ trả 2% trên 10 triệu USD (= 200.000 USD) mỗi năm cho Ngân hàng Bada chia thành từng quý với mỗi lần trả 50.000 USD.
Nếu Công ty Ruro không có sự bội tín trong việc chi trả trái phiếu của họ, thì quỹ hưu trí sẽ thực hiện các khoản chi trả hàng quý cho Ngân hàng Bada trong 5 năm và nhận lại tiền gốc 10 triệu USD sau 5 năm đáo hạn tại Công ty Ruro. Cho dù các khoản trả bảo kê CDS tổng cộng 1 triệu USD có làm giảm thu nhập đầu tư của quỹ hưu trí, nhưng bù lại rủi ro mất tiền đeo bám trái phiếu Ruro đã được loại trừ.
Nếu Công ty Ruro mất khả năng trả nợ vào năm thứ ba, thì theo hợp đồng CDS, quỹ hưu trí sẽ ngưng trả tiền phí từng quý và Ngân hàng Bada đảm bảo sẽ trả lại cho quỹ hưu trí khoản tiền 10 triệu USD (bằng hình thức thanh lý dựa trên tài sản hay thanh lý bù tiền). Tuy là được bồi đền, quỹ hưu trí vẫn phải mất 600.000 USD tiền phí trả trong 3 năm, nhưng nếu không mua CDS thì quỹ này sẽ mất trắng 10 triệu USD.
Cũng cần lưu ý rằng, dù đang tham gia vào một giao dịch phòng vệ rủi ro, quỹ hưu trí trong trường hợp này lại đứng trước một loại rủi ro khác, đó là “rủi ro đối tác” (counterparty risk) với Ngân hàng Daba. Theo đó, nếu ngân hàng này gặp khó khăn về tài chính thì quỹ hưu trí có thể sẽ chẳng được nhận đủ 10 triệu USD. (tinnhanhchungkhoan.vn)
6.Kết luận.
Với những nhà đầu tư chuyên nghiệp, khi hiểu rõ về bản chất của CDS thì có thể sử dụng làm công cụ phòng ngừa rủi ro hoặc được coi là một kênh đầu tư. Còn với những nhà đầu tư chưa chuyên nghiệp cần tìm hiểu kỹ hơn về công cụ đầu tư này để sử dụng phòng ngừa rủi ro khi đầu tư tài sản cơ sở
Chúc bạn đầu tư may mắn và thành công.
Tổng hợp
Tuyết Mai U330/Tradafx